- Câu chuyện ngày xưa – TG: Vũ Quốc – Phần 2
- Câu chuyện ngày xưa – TG: Vũ Quốc – Phần 3
- Câu chuyện ngày xưa – TG: Vũ Quốc – Phần 4
- Câu chuyện ngày xưa – TG: Vũ Quốc – Phần 5
- Câu chuyện ngày xưa – TG: Vũ Quốc – Phần 6
- Câu chuyện ngày xưa – TG: Vũ Quốc – Phần 7
- Câu chuyện ngày xưa – TG: Vũ Quốc – Phần 8
- Câu chuyện ngày xưa – TG: Vũ Quốc – Phần 9
Câu chuyện ngày xưa – TG: Vũ Quốc – Phần 9
Thằng Tâm bực mình vì có tiếng léo nhéo kêu réo của ai đó ngoài bờ sông. Hai ngày rồi, nó chờ anh Hai mà không thấy ổng về. Còn người không cần thì tới quấy rầy nó. Nó dòm ra thấy năm sáu người đàn ông lom khom khiêng cái gì đó. Tò mò, nó chạy ra coi. Vừa tới trước ngõ, nó đứng chết trân không nói được tiếng nào. Người ta đang khiêng cái xác ướt nhẹp sình trương nức nở của anh rể nó vô chòi. Cái áo căng bung đứt cúc để lòi lớp thịt da nức nở, tái nhợt. Tròng mắt gần như muốn lồi ra ngoài, khắp người xây sát bởi vết rỉa rói của cá tôm.
Khi đặt Dũng “chày vồ” nằm ngay ngắn trên bộ ván, lúc đó nó mới khóc ồ ồ. Nó khóc không còn biết trời đất gì chung quanh. Người ta khuyên giải, rồi chở nó về nhà chị Hai báo tin.
Cái chết của Dũng “chày vồ” là đòn chí tử không chỉ riêng mình chị Hai thằng Tâm. Gần tới ngày sinh nở, chị không chịu đựng được nên băng huyết. Cứu được chị nhưng cái thai nhi còn non ngày tháng đã chết từ trong bụng mẹ. Còn cậu Út thằng Lực có mặt trong đám tang, bỏ công bỏ của, xăng xái lo lắng hết lòng. Trông ông chẳng thấy biểu hiện gì, ông lúc nào cũng tỏ ra minh mẫn, chào hỏi cảm ơn xóm giềng phụ lo chôn cất gã chu đáo. Căn chòi được dỡ ra vì không ai còn muốn ở nơi đầy thương đau ấy, gã được chôn nằm trên phần đất nhiều kỷ niệm của mình. Nhưng xong đám tang gã, thì cậu Út về nhà trở bịnh, ông không ăn không uống nhiều ngày, nằm quay mặt vô vách cứ thiêm thiếp mê man. Thằng Lực đổ thuốc cho ông nhiều nhưng không ăn thua gì, ông vẫn như người hấp hối. Thằng Lực còn sợ dữ, tối nó không dám chợp mắt vì nghĩ hồn ma ông Dũng ám cậu Út nó. Thằng Tâm đã về lo cho chị Hai cho nên nó không biết nói với ai.
Ở nhà, bịnh chị Hai đỡ dần, tuy nhợt nhạt, nhưng vì bầy con nên chỉ cố gượng dậy ăn uống, đi tới đi lui trong nhà. Chị Hai lòng đau như cắt vì tình nghĩa vợ chồng mười năm mặn nồng. Tuy có lúc hờn giận, ghen tuông nhưng chị Hai vẫn trọn phụ đạo, chị tin rằng ảnh cũng linh thiêng phù hộ mấy mẹ con. Còn thằng Tâm thì lầm lì không nó một câu từ hôm anh Hai chết.
Trong lòng nó, ngoài thằng Lực là bạn nối khố, là người nó thương thầm, thì anh Hai nó cũng thương, cái tình thương mà nó khó nói nên lời, giống như tình anh em ruột thịt mà còn hơn thế nữa. Chưa đầy hai tháng, mà có biết bao kỷ niệm, nó và anh Hai nó gần gũi sống với nhau ý tình trọn vẹn. Có lúc, nó còn tưởng mình là bà vợ bé của anh ấy sau nhiều lần chung quan hệng xác thịt với nhau. Nó háo hức thèm muốn khám phá, còn ổng thì mềm lòng nên chiều chuộng nó. Một tuần lễ, trước lúc anh Hai nó chết, nó thấy ổng nghĩ ngợi gì rầu rĩ dữ lắm. Thấy ổng buồn, nó chọc ghẹo cho khuây, nhưng vừa buông ra thì đâu lại vô đó, ổng thừ người cả buổi. Ờ mà nhắc tới ổng, nó mới nhớ một chuyện. Ổng có dẫn nó ra sau nhà tắm, chỉ cho nó thấy cái chỗ chôn cái tỉnh nước mắm. Bên trong không phải là nước mắm mà là lá thơ, ổng trét hồ lên kín miệng tỉnh rồi chôn.
– Mày phải thề với tao, mày không được tò mò tọc mạch, đào lên xé thơ ra coi.
Thấy ổng cứ biểu nó thề hoài mà mặt mày ổng căng thẳng nên nó nhận lời thề độc, chừng đó ổng mới tin. Kêu nó vô nhà mà dặn :
– Mày nghe cho kỹ nè Tâm, chuyện này mày không được nói với ai, có khảo cũng không được khai, nhưng phải nhớ cho kỹ. Chừng nào ở nhà có chuyện lớn thì mày phải lén đào tỉnh nước mắm lên, đập bể. Sau đó, lấy cái thơ tao viết sẳn chạy qua nhà thằng Lực giao tận tay cậu Út nó, không được giao cho bất kỳ ai khác, nhớ chưa ?
Nó thấy sinh nghi, không biết chuyện lớn là chuyện gì, mà cũng không hiểu sao anh Hai nó quen với cậu Út. Nó kiếm cách vặn hỏi, nhưng anh Hai nó từ đó sắp sau không hé nửa lời. Coi lén thơ thì nó không thèm ! Rồi ngày qua ngày nó quên tuốt luốt. Bây giờ ngẫm nghĩ mới nhớ.
– Em qua thăm ảnh nghen chị Hai.
Thằng Tâm ngó chị Hai nó và nói.
Chị Hai rơm rớm nước mắt :
– Ừ, mày nhớ thắp cho ảnh mấy cây nhang để ảnh lạnh lẽo tội nghiệp.
Chị không nói nó cũng làm. Nó thương anh Hai nhiều lắm.
Bây giờ nó có thể một mình chèo xuồng qua chòi mà không cần nhờ ai nữa. Thằng Lực dạy nó lội, dạy nó chèo. Lội được không còn nhát gan sợ nước, nên học chèo xuồng cũng sáng dạ, sau vài ngày nó chèo một mình được rồi. Neo cột đàng hoàng, nó bước lên gò. Cái gò trước trống trơn, nay thì ba bốn phía lá lú mọc lấn lên gò, nếu ở xa nhìn chẳng biết đường nào mà mò, nhưng cái gò đất này nó đã quen thuộc nên không cần tìm kiếm. Hiềm một nỗi là cây cối chen chúc mọc um tùm khiến đi lại cản trở. Nó cầm dao khoai, phát sạch dây leo trên gò mã anh Hai, đốt nhang lâm râm vái, nhưng thực ra chẳng có van vái gì ráo. Nó thấy người ta làm, nó bắt chước. Nhưng trong bụng nó thực tình có tưởng nhớ anh Hai, chắc ảnh cũng biết bụng dạ nó. Xong xuôi, nó phát sạch cỏ lá lối ra nhà tắm. Cái chòi thì dỡ nhưng cái nhà tắm chằm lá xiêu vẹo sát bờ rạch thì chẳng ai buồn động tới. Nó tới góc cuối bờ ao xô mạnh. Cái nhà tắm rệu rạo đổ rạp. Nó lúi húi đào, moi lên cái tỉnh còn nguyên dấu xi măng niêm miệng. Nó dỡ cái tỉnh lên cao đập một cái cảng xuống đất, lăn lóc trong đám mảnh vụn là lá thơ niêm kín, bên ngoài gói trong cái túi ni lông trong. Nó cầm lấy bỏ vào túi áo, rồi xuống ghe chèo về hướng nhà thằng Lực. Trước khi về không quên xá xá mấy cái trước ngôi mộ đất.
Tới nhà thằng Lực, nó xấn xả chạy vào nhà. Thằng Lực bó gối đếm thằn lằn trên vách.
– Cậu Út có nhà không mậy ?
– Ổng bịnh nằm trong ván. Từ bừa đám ma anh Hai về, ổng nằm liệt giường tới nay, không ăn không uống.
– Sao mày không rước thầy ?
– Mày giỡn. Thầy bà tao rước đủ nhưng hổng ăn thua, tao đổ thuốc đổ cháo cho ổng mới thoi thóp tới giờ này không thì cũng theo anh Hai mày từ khuya rồi.
– Mày nói gì kỳ vậy !
– Tao nghi hồn anh Hai mày bắt ổng. Có lúc mê sảng tao nghe ổng kêu tên anh Hai mày.
Thằng Lực rầu rĩ nói tiếp :
– Bây giờ thì kêu ổng cũng không cục cựa. Tao sợ ổng đi bỏ tao lại một mình.
Mắt thằng Lực đỏ hoe. Thằng Tâm cũng hiểu cái cảnh người thân ra đi, người còn sống bơ vơ nên nó đồng cảm với thằng Lực, cũng bùi ngùi ra mặt. Chợt nhớ chuyện cái thơ, nó nói :
– Để tao gặp ổng một chút.
– Ối, tao là con cháu kêu ổng nhận còn hổng ra nói chi là mày.
– Kệ tao.
Thằng Lực ngồi im, còn thằng Tâm tới sát bộ ván ghé tai cậu Út :
– Cậu Út, dậy đi, con mang cái này cho cậu nè.
Thằng Lực thấy vậy cười buồn. Nó biết ổng đang hấp hối mà phải bó tay. Tư dưng nước mắt nó nhỏ ròng ròng, khóc không ra tiếng.
– Dậy đi cậu, cậu có thơ nè.
Cậu Út vẫn bất động.
– Ráng dậy đi cậu, anh Hai con gởi thơ cho cậu.
Thằng Tâm thấy bờ vai cậu Út nhút nhích chút xíu rồi lại như cũ. Nó đoán chắc giữa cậu Út và anh Hai nó có chuyện gì. Nó kề sát tai ông nói rành rọt :
– Anh Dũng con gởi thơ cho cậu nè, ráng dậy đi cậu. Ảnh dặn chỉ đưa thơ tận tay cậu thôi. Cậu có nghe không ?
Gương mặt lạnh lẻo như xác chết của cậu Út có chút thay đổi, cặp môi ông co giật nhẹ.
– Ê Lực, tao thấy cái miệng ổng nhúc nhích.
Thằng Lực đang khóc mùi, thấy vậy mừng quýnh chạy tới. Quả thật, hình như ổng định nói hay hỏi gì đó nhưng không còn sức. Nó quay ra bàn hấp tấp bưng ly sữa nguội ngắc, múc từng muỗng vạch miệng ổng mà đổ.
– Mày nói đi, nói gì đó cho ổng nghe đi. Ổng nghe mày ổng sống rồi !
Thằng Tâm thấy thằng Lực lính quýnh ngộ nhận, vừa buồn cười vừa thấy thương nó làm sao. Nó cúi xuống nói vào tai ông :
– Cậu rán dậy, anh Dũng con có nhiều chuyện muốn nói với cậu. Ảnh viết thơ biểu đưa cho cậu. Anh Dũng “chày vồ” đó, cậu nhớ không ?
Chỗ này là thằng Tâm nói xạo, nó có biết anh Hai nó nhiều chuyện hay ít chuyện gì, còn hỏi ổng nhớ không là hỏi cầu may vì thấy ổng nghe tên Dũng là có phản ứng nên nó phịa đại, may ra ổng hồi tỉnh thì sao.
Thằng Lực đổ hết ly sữa, sau đó chạy vô bếp múc thêm chén cháo trắng đút cho cậu Út. Chừng một tiếng sau thì cậu Út mở mắt, tuy chưa nói được nhưng trông sắc diện ổng cũng khá hơn. Nó múc nước trà cho ổng nhấp từng ngụm nhỏ. Trong lúc đó thì thằng Tâm cầm lá thơ vẫn còn trong bịch ny lông trong kê sát mắt ông già. Ánh mắt cậu Út dừng khá lâu trên hàng chữ ngoài bao thơ. Sau đó, thì ông cố gắng chiêu nước uống nhiều hơn.
Thằng Lực đỡ cậu Út ngồi dựa vào lòng nó, cầm cái quạt lá phe phẩy nhè nhẹ. Còn thằng Tâm cầm lá thơ dư dứ trước mắt. Trông cái cảnh đó nếu không xét tới tuổi tác, bệnh tật chắc sẽ có màn cười lộn ruột vì giống như hai thằng đang nhữ, dỗ dành em bé. Mồi nhữ chính là lá thơ trong tay thằng Tâm.
Tới chập tối thì cậu Út đã tỉnh táo hẳn, nhưng người vẫn còn mệt lã, chưa cục kịch gì nhiều. Ông ra hiệu cho thằng Tâm để lá thơ lên ván rồi cầm tay ông đặt lên trên lá thơ. Cái ngôn ngữ không lời làm thằng Tâm điên đầu, hai thằng tha hồ đoán già đoán non, nghĩ mãi mới thông. Khi lá thơ nằm trong lòng bàn tay, ông già tươi tỉnh hơn, ông khẽ gật đầu ra ý hài lòng.
Hai thằng ở lại canh cậu Út cho tới khuya, mỏi mòn rồi lăn ra ngủ.
Lúc hai thằng tỉnh giấc thì sáng bạch, cậu Út ngồi tựa lưng vào vách, cặp mắt linh hoạt hơn, nhưng mặt ông ướt đẫm nước mắt. Ông khóc nhưng không hề giấu diếm che đậy.
Thằng Lực lật đật lấy khăn nhúng nước lau mặt cho ông. Lúc trở vô để ý mới thấy tàn tro lá thơ dưới đất. Thì ra, cậu Út đã coi thơ rồi đốt.
Một lát thì cậu Út kêu đói bụng, hai đứa thay phiên chạy lên chạy xuống vừa coi chừng cậu Út vừa nấu cơm. Cơm dọn xong, ông ăn liền hai chén đầy. Rồi ông hối hai đứa nó đưa ông qua nhà chị Hai. Thằng Tâm ngạc nhiên chẳng biết chuyện gì, nhưng hai đứa chiều lòng chở ông qua nhà chị Hai.
Sau khi phân vị chủ khách, thì cậu Út mới nói :
– Tui bịnh mới mạnh, sức còn yếu nên nói gọn. Mong bà chị bỏ lỗi.
Chị Hai định nói, thì ông khoác tay ra dấu đừng ngăn ông lại, ông nói tiếp :
– Tui qua đây có hai chuyện muốn thưa với chị. Một là chuyện giữa tui và anh Dũng…
Thằng Tâm không khỏi tò mò, nó muốn biết hai người quen biết thế nào. Thằng Lực cũng không hơn gì nó.
– … Hồi đó, tui và ảnh ở chung đơn vị, nhưng tui có lỗi lớn với ảnh. Nay ảnh đi xa, còn chị thay mặt ảnh nên tui qua đây tạ lỗi với chị, mong chị và ảnh rộng lượng bỏ qua.
Đang ngồi ghế, ông tuột xuống đất, vịn cạnh bàn tới trước mặt chị Hai rồi sụp xuống đất mà lạy. Chị Hai hồn bất phụ thể, lật đật đứng lên xua tay :
– Lỗi phải gì tui hổng biết, nhưng anh làm như vầy thiệt tui không dám nhận. Anh đứng dậy đi.
Hai thằng cũng ngớ ra vì không ngờ sự việc diễn biến như vậy.
– Sao hai đứa không đỡ ông anh dậy ?
Tới chừng đó hai đứa mới giựt mình ráp đỡ ông về chỗ. Con mắt cậu Út đỏ chạch, hai dòng lệ lăn dài. Ông nói tiếp :
– Còn chuyện thứ hai, trước lúc ảnh đi, ảnh có viết thơ cho tôi nhờ chuyển lời nói cho chị hay : ảnh muốn chị và các cháu tạm lánh về nhà bà con càng xa càng tốt, ở ít lâu, đừng ở đây nữa. Ảnh sợ giữa ảnh và đám lính chi khu hiềm thù làm liên lụy tới chị và các cháu. Còn nữa, đây là chuyện quan trọng, ảnh dặn đi đặn lại là chị phải đi gấp không được chần chờ. Ảnh chỉ còn mấy đứa con dại đành phải trông nhờ vào chị hết.
Ông ngồi lấy hơi, còn chị Hai ngơ ngác chưa biết nếp tẻ gì :
– Ổng chăn vịt, rập cua mắc mớ gì tới lính tráng mà thù hiềm ?
– Tui thiệt không biết, vì trong thơ không có nói rõ. Chưa hết, ảnh còn dặn phải đưa hai thằng này – ông chỉ thằng Lực và thằng Tâm – trốn gấp lên Sài Gòn, vì tuy ảnh chạy làm giấy miễn dịch cho tụi nó, nhưng bây giờ ở đây tụi nó tới bố cũng bắt hai thằng này như thường. Có lẽ nội nhật hôm nay, tui dẫn thằng Lực đi, còn thằng Tâm không biết ý chị ra sao nên gặp chị xin phép và hỏi ý kiến. Ảnh thương hai đứa nó, không muốn hai đứa bị đưa ra vùng một, sống chết chưa biết ngày nào.
Cậu Út nín lặng không nói gì nữa. Cả nhà chưa hết lạ lùng vì chuyện trước, thì chuyện sau càng lạ lùng hơn.
Chị Hai thút thít khóc, hồi lâu mới nói :
– Ảnh trối vậy, tui đâu dám cãi. Ngặt thằng Tâm theo anh rồi sinh sống ra sao, tui thì nhà nghèo… thiệt hổng biết cách nào chạy tiền đưa cho nó mang theo.
– Chuyện này chị cứ yên tâm, trước vong linh anh Hai và trước mặt chị tui hứa ngày nào còn sống tui sẽ hết lòng lo cho nó như lo cho thằng Lực, không để nó phải khổ sở. Lâu lâu nếu thấy yên ổn thì nó về thăm hoặc ở lại luôn với chị thì tùy nó. Bây giờ tui cho chị cái địa chỉ tạm liên lạc ở Sài Gòn. Tui sẽ tới đó ở vài ba tháng rồi đổi chỗ, tui sẽ gởi địa chỉ mới cho chị sau. Chị cầm lấy có gì liên lạc với tui.
Ông già biểu thằng Tâm lấy giấy viết, ông viết nguệch ngoạc lên tờ giấy tập rồi đưa cho chị Hai.
Thằng Tâm ngồi kế bên thằng Lực, kế đó là cậu Út. Ba người ngồi trên chiếc xe đò mà già trẻ hai luồng suy nghĩ khác nhau. Hai đứa tuy xa quê, xa những kỷ niệm, xa chị Hai có chút bùi ngùi nhưng vẫn vui mừng ra mặt vì chúng sẽ biết được Sài Gòn, biết những cái mới vốn chỉ nghe kể mà chưa từng thấy, nhưng vui hơn hết là hai đứa lại sống chung với nhau, điều này không đứa nào nói ra nhưng đều mong muốn như vậy.
Còn cậu Út vẻ mặt uể oải trầm ngâm. Ông bỏ ngoài tai những tiếng cười đùa, những mẫu chuyện rôm rả của hành khách trên xe, trong đầu ông, những hàng chữ của Dũng “chày vồ” còn như in, ông đọc đi đọc lại lá thơ nhiều lần, sao mà không nhớ :
“Anh Nam, Hoài Nam của em
Lúc anh đọc những hàng chữ này, chắc là em đã đi xa lắm rồi. Con người ai cũng một lần chuẩn bị hành trang cho chuyến đi của mình, thì lá thư này chính là hành trang của em trước lúc lên đường, nhưng em không mang theo mà để lại cho anh.
Cuộc đời em trải qua bao thăng trầm, nhưng em hiểu chỉ có duy nhất thời gian bên anh là em được hạnh phúc. Đáng tiếc là quá ngắn ngũi. Chuyện hai đứa mình đã là chuyện quá khứ cũng không nên nhắc làm gì, chỉ trách trời già cay nghiệt, khiến cho mỗi người mỗi ngã.
Nhưng điều em không yên tâm khi ra đi chính là chuyện vợ con và chuyện thằng Lực, thằng Tâm. Em xin nói vắn tắt để anh hiểu, thông cảm và rán sức lo liệu dùm em.
Con đường em đã chọn trước nay vẫn vậy, em đành làm cái nghề bán trôn nuôi miệng, cốt chỉ để nuôi vợ con và thằng Tâm. Quả là đau đớn khi phải thừa nhận điều này, khi trong lòng em vẫn chỉ một hình bóng của anh. Vừa rồi, được biết cậu của thằng Lực là anh thì em mừng lắm, nhưng chân đã lún bùn, rút ra êm thắm cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng. Em vẫn nuôi hy vọng gặp lại anh, được anh tha thứ và hàn gắn như xưa. Hy vọng ấy càng lớn thì em càng phải cố gột rửa những thứ nhơ nhuốc quanh mình. Em đã cự tuyệt khách chơi, thậm chí em đã làm cho một thằng mất cả giống đàn ông, thật buồn cười phải không anh ? Em trốn thoát được, nhưng bản án của thần chết đã treo lơ lững trên đầu. Em không muốn trốn chạy biệt xứ vì còn những người thân, và còn anh ở lại. Mấy hôm nay, trong bụng phập phồng, bứt rứt, em nghĩ cái ngày ấy cũng gần kề nên không thể không nói rõ :
Thằng Tâm và thằng Lực nó giống như mình, anh cố bảo bọc chúng đừng để chúng lâm vào cảnh ngộ như mình. Nếu còn kịp, cố mà đem chúng đi càng xa càng tốt, mấy tờ giấy miễn dịch ở đây chỉ là thứ giấy lộn, một khi bọn lính Chi khu quyết rửa thù trả hận. Đi đi anh, đừng nấn ná kẻo hối không kịp.
Còn vợ con em, anh cố khuyên nên dọn nhà đi ở tạm nhà người thân, đâu đó cũng được để tránh chuyện khó dễ sau này.
Sau khi em đi rồi, chỉ mong anh nén buồn đau, hãy cố gượng mà sống vì những người thân yêu còn lại là em mãn nguyện rồi. Nếu có kiếp sau, em xin nguyện gắn bó trọn đời bên anh, không ai có thể chia lìa. Không ai cả ! Tấm hình hai đứa chắc anh còn giữ. Nếu cuộc đời thực tối tăm, u ám, ngăn cản đôi ta thì trong mơ em sẽ gặp lại anh, mãi mãi.
Vĩnh biệt anh
Dũng”.
Chiếc xe đò dằn xốc, hành khách nháo nhào. Tâm và Lực cười giòn, hai đứa mơ về con đường tươi sáng phía trước…
HẾT